Sau
tám ngày vượt qua biển Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Triều Tiên, tàu
cập Cảng Vladivostok ở cực Đông Liên Xô. Từ đây, một đoàn tàu khác xuyên
Sibéria qua hơn chín ngàn ki lô mét đưa chúng tôi về Moscow. Trong hành
trình, chúng tôi dừng chân ởrấtnhiều thành phốnhưKhabarovsk,
Baikal, Novosibirsk... kể cả các ga nhỏ và dù làhai bagiờ sáng, ở đó
vẫn có thanh niên và cả các cụ già đón với hoa, khăn quàng sặc sỡ, huy
hiệu, nụ hôn nồng nhiệt và những lời yêu thương... “Mẹ ở xa, cách đây
một trăm cây số, đến đây từ chiều để chờ các con, mẹ đón các con từ Mặt
trận trở về mà. Mẹ tự hào vì các con đã và đang thắng thằng đế quốc to
nhất nhân loại”.Câu nóicủa một bà cụ với ánh mắtyêu thương chan
chứakhi ômtôivào lòngđã khắc vào tâm khảm tôi niềm tự hào rưng rưng
cho đến tận hôm nay, khi viết lại những dòng này. Những ngày ấy, dù ở
trên đất bạn, nhưngchúng tôi luôn có cảm giác thân thương, ấm áp như
đang ở chính trên đất nước mình. Chẳng thế mà lúc ở Khabarovsk, khi đi
dọc con sông Amur - dòng sông dài thứ hai ở Liên Xô với gần bốn ngàn năm
trăm ki lô mét đổ ra biển Thái Bình Dương, nhạc sĩ Xuân Hồng đã thốt
lên: “Ôi! Sao giống sông Cửu Long ở Nam Bộ mình quá”.
Khi đến
Ulan Ude thì trời trở rét với gió lạnh kèm mưa. Mong manh trong bộ quân
phục quân giải phóng nên ai cũng run lên. Các bạn thanh niên Ulan Ude
thấy vậy liền tổ chức đốt lò sưởi, cùng chúng tôi nhảy múa, ăn bánh mì
với bơ kèm phômai, xúc xích,cá khô hồ Baikal và uống sữa nên ai cũng
thấy ấm áp. Sáng hôm sau, chúng tôi tới hồ Baikal ở phía Nam Sibéria,
nơi được mệnh danh là hồ nước ngọt sâu và lớn nhất hành tinh, với đa
dạng sinh học trênmột ngànloài khôngởbất cứ nơi nào trên trái đất
có. Hồ có nhiều đảo nhưng Olkhon là đảo trái tim. Olkhon rộng lớn bằng
quốc đảo Singapore với những người dân chuyên làm nghề khai thác thủy
sản trên hồ, hầu hết là dân tộc Buryat (gốc từ tộc người Mông Cổ).Người
Buryat gọi hồ Baikal là biển thiêng Baikal. Sương mù như một tấm voan
khổng lồ phủ nhẹ lên mặt hồ tạo nên bức tranh thủy mặc trữ tình khiến ai
trong đoàn cũng vô cùng thích thú. Một lúc sau, nắng đẩy nhẹ tấm voan
ấy và mặt nước trong xanh hiện ra với rừng bạch dương in bóng xuống như
những hàng quân chỉnh tề đang hành quân ra trận. Nước hồ Baikal trong
suốt như pha lê, đi thuyền có thể nhìn sâu đến nămmươimét. Xa xa, dưới
gốc bạch dương,thấp thoáng bóng người ngồi câu cá. Mùa đông tuyết ở
đây phủ dàyvàimét. Mặt hồ đóng một lớp băng nhưng vẫn còn những lỗ
trống do những người câu cá khoan trên mặt băng. Những con cá giật lên
được họ bỏ vào một hầm đào dưới tuyết rồi cho muối để chôn. Sau một
ngày, cá chín tự nhiên, đem treo lên sẽ thành món cá khô. Món cá đó,
người Nga nhà nào cũng có để nhấm với rượu vodka hoặc với bia. Cá chỉ
cần bóc vảy là ăn được, vị ngọt và béo được giữ nguyên cùng muối làm cho
cá thêm đậm đà. Đến hồ Baikal, nhất là đến làng đảo Olkhon, chắc chắn
bạn sẽ được mời uống vodka hoặc bia Nga với cá khô Astrakhan.
Chúng
tôi đã sống ba tuần lễ trên đoàn tàu đặc biệt nặng nghĩa tình, đi qua
tám mươibảy thành phố, vượt qua mười kinh độ địa cầu ở phía vĩ tuyến
50oBắc gần biển Bắc Băng Dương cao hơn Việt Nam đến hai mươi lăm vĩ độ.
Con tàu đưa chúng tôi từ Đông đến Tây Sibéria với những lãnh nguyên,
thảo nguyên bao la, vượt qua những rừng bạch dương đang vào thu đổ lá
vàng để đến Moscow rồi tiến về Bulgaria. Sau này, nhiều lần đến Liên Xô,
ghé lại Moscow,nhưng những ngày tháng đó, luôn là những khắc dấu vô
cùng sâu đậm trong tâm hồn tôi. Ngày nay, dù Liên Xô không còn nữa,
nhưng với tôi, vẫn là một Liên Xô nguyên vẹn trong lòng nước Nga, nhất
là lớp những người lớn tuổi. Họ dành một tình cảm trước saunhư mộtvới
Việt Nam, vẫn một ý chí vì dân tộc Nga hùng cường. Trong ngăn kéo của
Tổng thống V. Putin tấm thẻ đảng viên cộng sản Liên Xô còn đó như
kỉniệm của một thời lịch sử đáng nhớ. Những gì nước Nga đang làm hôm
nay phải chăng là đi trên cái nền tảng oai hùng và truyền thống cao đẹp
đó?Trong những lần công tác ở Nga, tôi đã được gặp lại những V.
Glazunov, nguyên Trưởng ban Chi viện Việt Nam của Trung ương Đảng Cộng
sản Liên Xô;Victor Petrorop, Chủ tịch Ủy ban đoàn kết Á Phi về sau là
Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô… cùng nhau uống rượu Beluga bạch
kim và nhắc lại những ngày của mấy chụcnăm về trước. Những ngày ấy,
Việt Nam cần gìđều được Liên Xô chi viện.Từ loại súng tầm ngắn đến tên
lửa tầm cao, xe tăng, máy bay rồi quân trang, thuốc men, lương thực…
đến đội ngũ sĩ quan làm chuyên gia quân sự giúp quân đội ta sử dụng
thành thạo các loại khí tài hiện đại được viện trợ. Liên Xô không chỉ
sẵn sàng giúp ta chiến thắng ở chiến trường, ở mặt trận ngoại giao mà
còn giúp miền Bắc xây dựng và phát triển. Anh Glazunov, Chủ tịch Hội hữu
nghị Nga - Việt hiện giờ, ngườicũngtừng có mặt ở thủy điện Hòa Bình,
nhiệt điện Uông Bí, trong vai trò một chuyên gia điện nói với chúng tôi
bằng tiếng Việt rằng. Với nền tảng đã có từ Liên Xô, hai nước Nga và
Việt Nam sẽ làm nên nhiều kìtích trong hợp tác toàn diện với nhau và
lớp trẻ hai nước sẽ ngày càng hiểu và gìn giữ, phát triển tình cảm cao
đẹp này.
Moscow, mùa thu vàngTôi không nhớ
đã đến Moscow, nơi chúng tôi vẫn quen gọi là Mạc Tư Khoa bao nhiêu lần.
Có những lần giữa mùa đông, tuyết phủ trắng xóa trên các nóc nhà, mui
ôtô, trên đường, Hồng trường tuyết dày đến mấy mươi phân, rồi mùa xuân
với những cây bạch dương, cây sồi nẩy lộc và hoa muôn sắc ở các công
viên. Nhưng Moscow với tôi, khó quên nhất là giữa thu. Khi ấy, những
cánh rừng bạch dương trải dài một màu vàng. Con đường lên đồi Lenin, cây
bạch dương đứng thong dong vàng rực. Lá phủ nền đường óng ánh, gió nhẹ
nhàng từ tốn xoay những chiếc lá vàng như những nốt nhạc trong bản
Hồ thiên nga
của Traicopsky, những lời thơ của Pushkin... Thong dong bước trên con
đường bạch dương vàng rực ấy, trong tôi chợt vọng lên những câu thơ của
người bạn già quá cố, nhà thơ Lưu Trọng Lư:
Em không nghe rừng thu/Lá thu kêu xào xạc/Con nai vàng ngơ ngác/Đạp trên lá vàng khô.
Hệt như trong bức tranh Mùa thu vàng của Levitan đã vẽ, nhưng khác ở
đây, tôi được đi trong không gian ba chiều của bức tranh ấy với trên tay
là một chiếc lá vàng. Trên đồi Lênin, có một khu cho người dân bán
những đồ lưu niệm như muốn gợi lại với du khách một quá khứ Xô viết hào
hùng, bất diệt với nào là quốc huy, huy hiệu, quân hiệu, cả quần áo, mũ
lính hồng quân, nhất là kiểu mũ màPavel Korchagintrong Thép đã tôi thế
đấyđã đội. Trên các bình gốm, cáccon Matreshkamà bên trong có những
con nhỏ dần đến 12-16 con, có in cả hình Lenin,Stalin, và cả Putinnữa.
Tôi
đã đi đủ năm châu, đã đến hầu hết các thành phố tên tuổi của thế giới,
nhưng với tôi, Moscow vẫn là Thủ đô đẹp nhất. Moscow đẹp bởi dòng sông
Moskva uốn lượn dài nửa ngàn cây số chảy qua rồi đổ vào sông Oka để hòa
vào dòng Volga. Năm 1932, chính quyền Xô viết cho đào kênh đào dài gần
một trăm ba mươi ki lô mét vòng lượn trong lòng thành phố và nối thông
với sông Moskva. Gọi là kênh đào nhưng rộng đến cả một trăm mét, sâu năm
đến sáu mét đủ cho tàu du lịch qua lại. Nhờ vậy,thành phố Moscow nối
thông với năm biển lớn: biển Trắng, biển Baltic, biển Caspi, biển Azov
và biển Hắc Hải. Hệ thống sông ngòi cùng với hệ thống Metro tàu điện
ngầm là mạch giao thông lítưởng của thành phố này. Hệ thống Metro
Moscow có một trăm bảy mươi nhà ga, mỗi ga một kiểu và đều lộng lẫy nguy
nga như những cung điện tráng lệ, tạo ra một cuộc sống náo nhiệt khác
dưới lòng đất.Ở Moscow, đầu tiên phải kể đến điện Kremlin. Kremlin có
nghĩa là thành nội. Ngày nay Kremlin vẫn là nơi làm việc của Tổng thống
như các triều đại xưa, nhưng vẫn có khu cho khách tham quan. Kremlin là
một bảo tàng lớn lưu giữ nhiều biểu tượng và kỉvật vô giá của các triều
đại Nga hoàng, của Cách mạng Xô viết, nơi Lenin, Stalin, Brezhnev… và
các lãnh tụ Xô viết làm việc hơn ba phần tư thế kỉ. Tháp Spasskaya được
kiến trúc sư Pietro Antonio Solari xây dựng năm 1491 với những quả
chuông đồng được đúc từ thế kỉ XVI, cùng với mười chínngọn tháp khác
tạo nên quần thể cung điện uy nghi. Tháp Spasskaya là ngọn tháp cao nhất
Kremlin với đồng hồ bốn mặt óng ánh kim và chữ số màu vàng. Nó như càng
cao thêm bởi ngôi sao nămcánh làm bằng đá cẩm thạch đỏ tím do chính
Stalin cho lắp đặt.Người Việt Nam đầu tiên đặt chân vào điện Kremlin có
lẽ chính là Bác Hồ. Tháng 10/1923, Người từ Pháp đến Moscow để tham dự
Đại hội Nông dân Quốc tế và Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản. Bác đã
họp tại cung điệnAndreevski trong khuôn viên Kremlin, để rồi sau đó từ
điện Kremlin, người về châu Á thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngoài
điện Kremlin,ở Moscow có những tòa nhà cao, phía trên là ngọn tháp chọc
thẳng lên trời, người Nga gọi đó là đỉnh Stalin, gotic Stalin. Sau khi
chiến thắng Phát xít Đức (thế chiến thứ 2) Stalin cho xây dựng bốn
mươicông trình để kỉ niệm, nhưng tiếc rằng chỉ mới xây được bảy công
trìnhthì ông qua đời. Thời gian trôi qua ba phần tư thế kỉ, bao ngôi
nhà chọc trời với các model tân tiến mọc lên ở Moscow, nhưng những tháp
cao, trên đỉnh là ngôi sao bằng đá cẩm thạch màu đỏ tím vẫn toát lên sức
mạnh. Tôi đã đi giữa mùa thu vàng trên đồi Lenin, ăn những trái táo
xanh có vị chua chua ngọt ngọt hái bên đường bồi hồi ngắm nhìn tháp
chính của đại học Lomonosov (một trong bảy công trình ấy).Đại
họcLomonosov được xây dựng từ năm 1755, đến thời Stalin được mở rộng và
trở thành trường lớn nhất Liên Xô. Về quy mô của ngôi trường này, người
ta tính, một đứa bé sinh ra cứ mỗi ngày ởmộtphòng, khi ra khỏi phòng
cuối cùng của trường sẽ là một thanh niên mười tám tuổi. Ngôi trường này
có trong kí ức của rất nhiều cán bộ Việt Nam bởi họ đã từng được học
tập và trưởng thành từ đây.
ỞMoscow, có một nơi ghi dấu ấn và
những kỉ niệm lịch sử để tưởng nhớ nhân dân Nga yêu nước đã anh dũng
hisinh và chiến thắng oanh liệt cuộc xâm lăng của Napoléon mà người chỉ
huy cuộc chiến đấu vĩ đại đó là Nguyên soáiKutuzov, đó là Quảng
trường, Công viên Chiến Thắng.Tượng Kutuzov được dựng ngay ở cổng Bảo
tàng Borodino, nơi trưng bày bức tranh vòng tròn dài một trăm mười lăm
mét vẽ lại cảnh quân đội của Kutuzov chiến đấu với quân Napoléon.Và
chính nơi đây, tại làng Fili ngày xưa, ngày 13/9/1812 hội đồng tướng
lĩnh đã họp để quyết định bảo vệ Moscow và nước Nga đang lâm nguy vì
quân xâm lược và quyết sách từ mảnh đất này đã làm nên chiến thắng. Nhân
dân Nga đã xây dựng nhà bảo tàng để kỉniệm một trăm năm cuộc chiến
tranh ái quốc (1812-1912). Đến năm 1973 đài kỉ niệm khổng lồ về các anh
hùng trong cuộc chiến tranh 1812 được xây dựng và được tôn tạo trở thành
Quảng trường và Công viên Chiến Thắng rất nguy nga, hoành tráng ngày
nay.Cùng với Quảng trường, Công viên Chiến Thắng,ở Moscow còn nhiều di
tích đẹpkhácnhư: Bảo tàng Mĩthuật, Bảo tàng Lịch sử, các nhà hát, di
sản Kuskovo, di sản Ostankino… đặc biệt, ở đây còn cóQuảng trường Hồ
Chí Minh nằm ở ngã tư đường Cách mạng tháng Mười với bức phù điêu chân
dung Bác đặt ở trung tâm.
Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily Hiển phúc trên quảng trường Đỏ - Ảnh: TL
Dấu ấn huyền thoạiNgười
bạn đưa tôi đi thăm Moscow là luật sư, lại là nhà sử học Nga. Chúng tôi
gặp ở Hồng trường,một người đóng giả Stalin giống y như thật, nếu ai
muốn chụp ảnh với “Stalin” thì trả vài trăm rúp.Không riêng gì tôi, rất
nhiều du kháchđến bắt tay và chụp ảnh với “Stalin” như để tìm lại một
dấu ấn lịch sử.Tôi hỏi người bạn sử học, anh nghĩ gì về Stalin.Anh
nói: “Lịch sử là lịch sử, không ai xuyên tạc được. Có bóp méo mà vốn nó
tròn thì vẫn là trònvà ngược lại. Lịch sử là phải nói đúng sự thật, cái
gì sai, cái gì đúng phải rõ ràng”. Tôi khẽ gật đầu và chợt nghĩ, nếu
không có Stalinthì Liên Xô, rồi thế giới sẽ thế nào trước sự trỗi dậy
của Chủ nghĩa Phát xít? Giá trị ấy là bất diệt, chẳng thế mà hàng năm
tại Hồng trường, trên đỉnh lăng Lenin vào dịp Cách mạng tháng Mười Nga
(7/11) hoặc ngày chiến thắng Phát xít (9/5), dù Liên Xô không còn, nước
Nga vẫn tổ chức mít tinh duyệt binh để kỉniệm, ôn lại truyền thống và
biểu thị sự hùng mạnh của quân đội Nga.Người bạn Nga kể lại với tôi
cuộc duyệt binh tại Hồng trường, sáng ngày 7/11/2011 kỉniệm bảy mươi
năm ngày nhân dân Liên Xô ra trận chống Phát xít cứu dân tộc do Thị
trưởng Moscow Sergei Sobyanin chủ trì đã tái hiện lại cuộc duyệt binh ra
trận năm 1941. Hai mươi tám(1) cựu chiến binh từng tham gia cuộc duyệt
binh năm 1941 quân phục nghiêm chỉnh cùng hai nghìn sĩ quan, binh sĩ Nga
của Thủ đô Moscow diễu qua lễ đài. Xe tăng T-34, T-38, T-60, những cỗ
xe huyền thoại năm xưa cùng vũ khí, trang phục năm 1941 được tái dựng
lại…Tất cả được truyền trực tiếp trên các kênh truyền hình quốc gia
Nga.Nói thêm về cuộcduyệt binh năm 1941,đó làmột cuộc duyệt binh để
khích lệ tinh thần quân dân Xô viết, để thế giới biết Liên Xô không đầu
hàng. Một cuộc duyệt binh nhưsự tuyên chiến với Chủ nghĩa Phát xít của
Hitle, của biểu tượng chiến thắng… Sáng hôm diễn ra cuộc duyệt
binh,Hitle tức tối điều lực lượng không quân của mình đến đàn áp và hậu
quả làhai mươi lămtrong số cácmáy bayném bomcủa Hitlerđã bị Hồng
quân bắn rơi vùi dưới tuyết.
Âm hưởng của sự kiệnấyvang
vọngmãi tới hôm nay. Một cuộc thăm dò năm 2008 với bốn mươi triệu người
Nga đã thừa nhận cuộcduyệt binh ngày 7/11/1941 ở Hồng trường là sự
kiện vĩ đại có một không hai và Đại nguyên soái Stalin được chọn là nhân
vật vĩ đại thứ ba của lịch sử nước Nga.
Cây cầu tình yêuĐến
Moscow không thể không đi qua những câycầubắc qua sôngMoskva. Mỗi
cầu có một cách thiết kế, một kỉ niệm riêng, một vẻ ẹp riêng.Cầu
Luzhkov bắt qua kênh đào Vodootvodny ở cuối đại lộ Trechekovski nối với
Hồng trường có rất nhiều ống khóa các kiểu lớn nhỏ móc nối tiếp nhau vào
lan can.Trong một lần đi vớiGiáo sư Nguyễn Quốc Sĩ, ngườiđược phong
hàm Viện sĩ hàn lâm ngành điện của Liên bang Ngađã sống ở đây hơn một
phần ba thế kỉ, trả lời thắc mắc của tôi về những ổ khóa đó. Anh bảo,
các đôi nam nữ không biết từ bao giờ khi cưới nhau, hoặc sau khi đến nhà
thờ làm lễ xong họ ra đây và móc vào lan can cầu một ống khóa có khắc
tên hai người với những dòng hứa hẹn ngắn viết trên ổ khóa, có khi là
một hình vẽ hai trái tim kèm chữ cái tên của hai người với màu sắc đẹp.
Họ sẽ cùng bóp khóa và rút chìa vứt xuống sông để muốn nói rằng hai trái
tim đã hòa vào một và không có gì chia lìa phá vỡ tình yêu của họ. Từ
đời này qua đời khác, khóa đầy cả thành cầu. Xuất phát từ nhu cầu của
tục đó, thành phố làm thêm hàng cây nhân tạo bằng kim loại rất đẹp gọi
là cây tình yêu, và trên những cành cây này giờ đây, cũng vô vàn ổ khóa
có khắc tên đôi lứa. Mùa thu vàng, những cặp uyên ương, chàng comple,
nàng váy trắng, choàng khăn voan trắng đi trong lá vàng rơi, đến cầu
tình yêu và hàng cây tình yêu để đặt khóa biểu trưng cho lời nguyện suốt
đời chung thủy. Có những đôi bạn trẻ mới yêu nhau, chưa cưới cũng đến
đây móc khóa để hẹn thề. Nhiều đôi vợ chồng lớn tuổi cũng rảo bước ở
đây, họ tìm lại ống khóa của mình để nhắc nhau hai chữ thủy chung. Nhân
nhắc đến cầu tình yêu ở Moscow, tôi chợt nhớ đến những cây cầu tình yêu
tương tự như vậy ở các nước. Có lẽ lâu đời nhất, cổ xưa nhất là ở thành
phố Rome Thủ đô Italia với cầu Milvio bắc trên sông Televe được xây dựng
từ những năm hai trăm trước công nguyên. Ở đây có quá nhiều những ổ
khóa tình yêu đến mức cây cầu Milvio không chịu nổi nên nhà nước phải
cấm.Ở nước Đức xinh đẹp cũng có haicây cầu tình yêu. Đó là cầu
Eiserner Steg đã trải qua hai thế kỉ,bắc qua sông Main của thành phố
Frankfurt và cầu Hohenzollern nối thành phố Koln với các xứ sở châu Âu
bên kia sông Rihine, người ta gọi đây là cây cầu lãng mạn nhất thế giới
bởi phong cảnh, sinh thái hài hòa và ở đây, ngoài những ổ khóa tình yêu,
còn có nhiều ổ khóa cho tình bạn thân thiết. Ở St. Pertesburg (trước là
Leningrad) cócây cầu nụ hônbắc qua sông Moika, các cặp tình nhân ra
đây để hẹn ước, họ không mắc ống khóa mà chỉ trao nụ hôn với lời nguyện
thề bền lâu.
Đi giữa hàng cây nhân tạo lung linh bởi các ống khóa
đủ hình thù, màu sắc của cầu tình yêu Luzhkov giữa Moscow,giọng đầy
cảm xúc, Nguyễn Quốc Sĩ nói với tôi: Tình yêu, lòng chung thuỷ chính là
trụ cột, là khởi đầu cho mọi sự sống,sự chiến thắng. Tình yêu, lòng
chung thuỷ đó khi được nhân lên, nó là tình yêu đất nước, yêu con người
và nó sẽ biến thành sức mạnh vô biên.
Saint Peterburg - Leningrad và những đêm trắngGiữa
đêm tháng sáu, các bạn đưa tôi và Thanh Hương, biên tập viên Nhà xuất
bản Trẻ, em gái tôi, đi thăm tượng Kịsĩ đồng để tưởng nhớ Peter Đại đế.
Tượng của người khai phá ra St. Petersburg được đặt giữa công viên bên
bờ sông Neva xinh đẹp. Đêm ở St. Petersburg hết sức tĩnh lặng. Nhà điêu
khắc đã rất thành công khi tạc nên bức tượng tuyệt diệunày. Ánh đèn pha
chiếu bốn góc làm nổi bật hình dáng Peter Đại đế đang phóng ngựa bay về
phía trước theo hướng vươn lên trời. Đế tượng là một khối đá nguyên
khổng lồ nặng đến nửa triệu tấn làm thế đứng bay lên của người đầu tiên
xây dựng St. Petersburg càng vững chãi và uy phong. Tôi đã đọc trong một
tiểu thuyết Nga nói rằng có những đêm từ tượng này, Peter đã cỡi ngựa
đi khắp thành phố để quan sát, chiêm nghiệm và giúp đỡ người nghèo khó.
Chuyện như một huyền thoại linh thiêng. Nhìn Peter phi ngựa đồng, tôi
chợt nhớ đến Thánh Gióng, Vị Thánh trẻ của Việt Nam đã cưỡi ngựa nhổ tre
làm vũ khí lao ra dẹp giặc phương Bắc xâm lăng,xong việc lớnNgười phi
thẳng về trời...
Đêm hè tháng sáu bên sông Neva, ánh sáng bàng
bạc của những đêm trắng trời vẫn se se lạnh. Hai anh em tôi phải kéo mũ
che tai và chen vào dòng người đi xem cầu mở trên sông Neva. Người từ
năm châu đến rất đông, họ chen nhau để tìm một vị trí tốt nhất chờ xem
cầu mở. Sau một giờ vài phút, hai nhịp cầu ở giữa từ từ cất lên. Tàu
thuyền nối nhau qua cầu trong tiếng hoan hô của đám đông. Đèn flash nháy
liên tục - họ chụp ảnh, quay phim cảnh cầu mở. Vào những đêm trắng như
thế này, xen vào những con tàu chạy qua lúc cầu mở là những cánh buồm đỏ
rực náo nhiệt bởi tiếng đàn nhạc và giọng ca sôi nổi. Những cánh buồm
đỏ này xuất phát trong thời kìLiên Xô dựa vào câu chuyện tình yêu của
Aleksandr Gin, nói về chàng thuỷ thủ Arthur Grey đã biến giấc mơ của
nàng Assol, người mình yêu, thành sự thực bằng cánh buồm đỏ thắm dưới
nắng mai rực rỡ trong tiếng đàn phong cầm trầm bổng.
Đến St.
Petersburg, người ta thường cố chọn để đi vào tháng sáu, tháng có những
đêm trắng. Từ ngày mùng mười tháng sáu, ở St. Petersburg dường như ánh
mặt trời không tắt, nó cứ bàng bạc, bàng bạc suốt đêm. Đặc biệt ngày hai
mốt và hai sáu tháng sáu, đêm sáng rực dù không có mặt trời. Đây là
hiện tượng do khúc xạ mặt trời từ bên kia bán cầu đang là ban ngày phản
chiếu qua những khối băng tuyết khổng lổ của Bắc cực rọi ánh sáng xuống
thành phố. Không nắng, nhưng trời vẫn sáng nhẹ nhàng và rực rỡ. Cả thành
phố thức, các cửa sổ mở tung, không cần đèn vẫn có thể nhìn rõ những
chậu hoa, bồn hoa trên ban công của mỗi căn nhà. Người ta tụ tập ở các
công viên, các quảng trường, bên bờ sông để vui chơi. Họ nhen lửa nướng
các món shashlik - món thịt heo cắt dày cả nạc và mỡ, xiên với hành tây
nướng lên thơm lừng. Họ ăn shashlik, uống bia, uống vodka và nhảy múa.
Tôi đã từng gặp ở đây những cô gái mặc phục trang truyền thống của Nga -
loại áo Sarafan đỏ, với chiếc mũ có vành trang trí rất đẹp như đuôi
công cũng màu đỏ và chuỗi ngọc trai lung linh. Người Nga gọi đó là mũ
Kokoshirik. Các cô gái Nga mắt xanh, tóc vàng, mặt hơi lấm tấm tàn
nhang, mặc những bộ quần áo này và múa hát. Họ hát những bài dân ca Nga
du dương trầm bổng như đi giữa rừng bạch dương đổ lá vàng thu. Con trai
đầu đội calô như những anh lính Ivan trong tiểu thuyết, vừa kéo đàn
phong cầm vừa nhảy với các cô gái trong trang phục dân tộc Sarafan trên
các thảm cỏ ven hồ làm xao động lòng người.
Cũng trong quãng thời
gian ấy, cả nước Nga và các nước châu Âu đều có thứ ánh sáng bàng bạc
này lúc chín mười giờ đêm. Chụp ảnh đêm rất có lợi thế bởi vừa có ánh
đèn lại vừa có ánh sáng kì diệu của thiên nhiên. Tuy nhiên duy chỉ có
St. Petersburg là có đêm trắng.
St.Pertesburg có hai trăm hai mốt
nhà bảo tàng lưu giữ tất cả những di sản lớn của nhân loại, của nước
Nga và của St. Petersburg. Đi trên đường phố của St. Petersburg mà tôi
vẫn quen gọi là Leningrad, thong thả dạo bước dưới những hàng cây, tôi
như được gặp lại đây nhà khoa học nổi tiếng Lomonosov, nữ nghệ sĩ ba lê
tài ba M. Kshesinskaya, các họa sĩ tài danh cửa nước Nga: Levitan,
Serov, Repin, Surikov, như được rảo bước cùng Gogol, Lermontov, nghe réo
rắt Bản giao hưởng Thứ6 của Traicopsky và gặp lại nhà thơ lớn Pushkin
mà tên tuổi và tác phẩm đã đi vào lòng người. Nhắc đến Pushkin, chợt nhớ
hôm trên đường đến cung điện Mùa Hè, tôi có ghé thành phố mang tên ông,
đi giữa hàng bạch dương đang thay lá dát vàng trên con đường nhỏ trong
làn sương mai dẫn đến tượng của Đại thi hào Pushkin trong công viên
Ekaterina, tôi bắt gặp một nghệ sĩ tóc bạch kim lóng lánh dưới nắng vàng
say sưa thổi sáo phối thơ của Pushkin, người đã sống và để lại phần đời
ở St. Petersburg.Thiên nhiên tàn úa bỗng tươi/Rừng thay áo mới cả
trời vào thu/ Ào ào gió thở hơi qua/Bầu trời gợn sóng, một làn khói
sương.(Thu vàng- Pushkin). Pushkin ơi, vâng, nước Nga dù có nhiều lần
thay áo, dù có lúc tàn úa, thì rừng bạch dương vẫn đứng thẳng, hiên
ngang và thách thức. Nước Nga - mùa thu, nước Nga luôn là biểu tượng của
tình yêu và chiến thắng.
T.Q.P--------
1. Theo thống kê đến năm 2018 còn 57 cựu binh từng tham dự cuộc duyệt binh năm 1941.
Nguồn: http://vannghequandoi.vn/van-xuoi/but-ki-phong-su/nuoc-nga-mua-thu-12928_8091.html