Đêm.
Tàu neo ngoài đảo Nam Yết. Nam Yết gần lắm, cảm giác chỉ cách một tầm
với. Nhận ra Nam Yết là nhờ vào dãy đèn nhấp nháy mỏng manh trong bóng
đêm thăm thẳm mịt mùng. Nếu không có chút ánh sáng ấy, tuyệt đối không
thể phân định được đâu là trời đâu là biển.
Lúc chiều, chờ xuồng chở vào đảo, tất cả đều ồ lên vì nhìn thấy cá heo.
Những chú cá heo bóng nhẫy, uốn cong tấm lưng như nghệ sĩ uốn dẻo nhô
lên mặt biển, và phía trước chú ta, một con cá chuồn ánh bạc nhảy loi
choi y như ai đó cầm viên đá ném thia lia trên mặt nước xanh ngắt. Gần
bờ, nước nông, ánh lên sắc biếc như cầu vồng dưới mặt trời chói chang.
Lâu lắm rồi, rất rất lâu rồi tôi mới nhìn thấy cùng lúc sao Bắc Đẩu và
hai chòm Đại Hùng Tinh, Tiểu Hùng Tinh. Một nỗi nhớ đến thao thiết tháng
năm xa xôi nào đó, nằm trên tấm sàn phơi ngô, phơi lạc, gối đầu lên
cánh tay bố và nhìn theo hướng bố chỉ. Ngôi sao sáng nhất kia là Bắc Đẩu
con nhé. Đi đâu, nếu lạc đường, hãy nhìn theo nó để tìm về nhà. Tất
nhiên, bố nói thế là cho một đứa bé mười tuổi nghe, gieo vào nó tâm hồn
mộng mơ để mãi đến tận sau này nó vẫn biết ơn bố vì điều đó. Chứ giả sử
có lạc thật, chỉ là trong một cánh rừng nào đó thôi, rồi cứ tìm Bắc Đẩu
mà về, thì có khi... hết đời cũng chưa về đến nhà.
Đêm nay, không chỉ Bắc Đẩu, mà cả hai chòm Đại Hùng, Tiểu Hùng, còn gọi
là Gấu Lớn, Gấu Nhỏ đều hiển hiện ngay trên đầu. Sáng rõ, đếm được từng
ngôi một. Bấy lâu, sống ở thành phố, hoá ra tôi luôn mang trong mình một
nỗi nhớ bầu trời. Một bầu trời đêm đầy sao. Những ngôi sao nhấp nháy xa
xôi, ở đâu trên mặt đất cũng có thể nhìn thấy. Trái đất này, hoá ra bé
nhỏ vậy sao? Và trên mặt biển này, đêm khuya, nước với trời là một, chỉ
khác nhau trời có Bắc Đẩu của tôi, còn nước, trong lao xao sóng, thì
đựng cái bóng của nó.
Và tôi nhớ cái buổi chiều đầy nắng, cùng những cơn gió lộng mang hơi
muối, xuyên qua những tán phong ba, táp vào ngực mình lúc tôi ngồi trên
cái bậu hè. Trước mặt, một con chó nhỏ với đôi mắt hiền lành nằm khoanh
như không hề bận tâm đến hàng trăm bước chân qua lại. Mùa này biển êm.
Không có bão. Cũng ít mưa. Cái bể chứa chỉ có rất ít nước. Đoàn ào đến,
văn công ào đến, rồi đi. Tàu neo ngoài khơi, để lại đó, giữa mênh mông
như không có giới hạn một hòn đảo nhỏ. Nếu tôi là họ, tôi sẽ nghĩ gì khi
xuồng rời bến? Chúng tôi vừa mang đến, rồi lại mang đi một chút quê
nhà, một chút đất liền, và rất nhiều lưu luyến.
Ở đảo, rất nhiều cây xanh. Tra, bàng vuông, phong ba, nhiều hoa. Tôi
đứng ngẩn ra trước một hàng hiên mà trước nó, bên ngoài lan can, một
luống cúc trắng, hồng, tím cao đến ngang ngực đang nở ra những bông căng
nhức. Đẹp một cách kì lạ. Làm sao loài cúc ấy lại có thể nở ra ở nơi
thừa nắng, thừa gió, thiếu nước như nơi này? Chúng nổi bật trên nền bức
tường sơn vàng và những khung cửa gỗ màu nâu. Dịu dàng mà mãnh liệt, rực
rỡ mà khiêm nhường. Dường như những cây cúc nở hoa không phải cho bản
thân nó, mà là dành cho tâm hồn kiên cường nhưng lãng mạn mơ mộng nào đó
đã gieo xuống những hạt giống mang ra từ đất liền.
Tôi gọi điện về nhà cho cô con gái nhỏ của tôi, một cô bé con cực kì
nhạy cảm và vô cùng yêu mọi loài vật. “Mẹ nhìn thấy cá heo đấy con ạ. Nó
uốn cong cái lưng của nó lên mặt nước. Nó chào con người đấy”. Giọng
con bé thốt lên đầy xúc động: “Ôi, ước gì con nhìn thấy nó”. Tôi muốn
con tôi nhìn thấy biển vô tận này, bầu trời đêm đầy những vì sao này,
những chú cá heo này, rặng san hô và những hòn đảo nhỏ màu xanh trên mặt
nước xanh... để nó biết là nó đang có một Tổ quốc đẹp biết bao.
Tổ Quốc, chỉ khi đứng ở những nơi tận cùng biên giới hoặc nơi đảo xa
cách nhiều giờ đi tàu, chúng ta mới thực có khái niệm rõ ràng nhất về sự
thiêng liêng của hai chữ ấy.
Ở trên đảo Song Tử Tây, trong một lớp học, các em nhỏ đang học chương
trình tiểu học. Cùng một chương trình với các bạn trong đất liền. Hẳn là
bọn trẻ ở đây sẽ không bị dán mắt vào màn hình smartphone hàng giờ liền
sau khi từ trường về. Không gian bao la cũng sẽ không khiến chúng bị
cận thị như lũ trẻ thành phố. Người ta nói, trẻ em ở thành phố bị cận
thị nhiều, trong đó có lí do là tầm nhìn của chúng quá chật hẹp, chứ
không chỉ do chơi nhiều thiết bị điện tử hay học hành trong điều kiện
thiếu sáng. Rồi bọn trẻ sẽ lớn lên ở đây, có thể để học đại học chúng sẽ
phải vào đất liền. Nhưng khác với những người lớn nhớ đất liền, chúng
sẽ nhớ đảo.
Tôi nhặt trên bờ cát, sát mép nước một vài vỏ ốc nhỏ. Chưa bao giờ tôi
được ai lí giải một cách thuyết phục rằng tại sao khi ghé những vỏ ốc
vào tai, chúng ta lại nghe thấy tiếng biển rì rào? Bất kể cách lí giải
khoa học nào, tôi cũng thấy thiếu thuyết phục. Tại sao khi dùng một cái
vỏ ốc... sên, ta lại không nghe thấy tiếng biển? Biển đã gửi linh hồn
mình cho tất cả mọi loài sinh ra, lớn lên, chết đi ở biển chăng? Và khi
mang cái vỏ ốc về, tức là mang biển về? Vậy thì tôi sẽ mang biển về nhà.
Về cái căn nhà tít trên nóc trời, nhỏ bé, chênh chao mỗi khi gió to mưa
lớn. Để rồi mỗi khi đi học về, con gái nhỏ của tôi sẽ chạy tới nơi nó
cất thật kĩ cái vỏ ốc, ghé tai nghe, rồi nói: “Chào biển! Chị đi học về
rồi đây!”. Tôi muốn giữ sự mơ mộng ấy ở lại thật lâu, thật lâu.
Trường Sa, như một đứa con vất vả, can trường, luôn chịu nhiều thiệt
thòi của mẹ Tổ quốc. Ưỡn ngực ra trước những con sóng đã triệu năm,
những cơn gió đã nghìn tuổi. Mẹ thì luôn thương những đứa con chịu
thiệt, cho dù nó có trưởng thành, mạnh mẽ đến đâu, thì cứ nghĩ đến sự
vất vả mà nó phải chịu lại thương đến thắt ruột.
Chúng tôi bỏ giày, leo lên nóc ngọn đèn biển. Cái ngọn đèn được sơn hai
màu vàng, trắng từ xa đã nhìn thấy, nằm ở rìa đảo. Từ đấy phóng mắt nhìn
ra xa, thấy trọn vẹn hòn đảo nhỏ được bao bọc bằng rìa cát trắng muốt.
Và rất xa, xa hút tầm mắt, là chân trời. Chân trời ban ngày được phân
định rất tượng trưng bởi màu trời màu nước gần như đồng nhất. Tôi chợt
nhớ, ngay trước ngày ra biển, đọc cuốn Lược sử thời gian (A Brief
History Of Time) của nhà khoa học thiên tài vừa qua đời Stephen Hawking,
trong đó có một chi tiết: Những người Hy Lạp đã từng đưa ra một luận
chứng chứng tỏ trái đất tròn đó là khi ra biển, người ta luôn nhìn thấy
cái cột buồm trước khi nhìn thấy thân con tàu. Chúng ta sẽ nhìn thấy mặt
biển hơi vồng lên, tròn trịa đều đặn, rõ nhất khi ta ở giữa nó. Như lúc
này đây, tôi đứng trên nóc ngọn đèn biển và nhìn ra xa. Mặt biển đang
vồng lên. Nó đã vồng lên hàng triệu năm qua. Và người lái những con tàu,
đêm đêm muốn nhìn thấy ngọn hải đăng trước, thì hãy leo lên nóc cột
buồm. Còn nếu cứ ngồi trong buồng lái, anh hãy chờ đi. Anh phải trèo qua
mặt biển một lúc nữa mới thấy nó. Thật kì diệu về một địa cầu mà ba
phần tư là nước, nhưng nước ấy lại không bao giờ rơi ra khỏi bề mặt của
nó ngoài cách bị bốc hơi.
|
Lính trẻ trên đảo Sơn Ca - Ảnh: Đ.B.T |
Một
bông hoa bàng vuông vừa nở trên một nhánh cây. Những cánh hoa của nó
tựa như những sợi tóc bóng đèn. Dài, mảnh, sáng lấp lánh. Một sự mâu
thuẫn cực kì mạnh mẽ giữa thân cây xù xì, gộc ghệch, những chiếc lá dày,
thô và nặng, với một bông hoa vô cùng mỏng manh. Nhắc đến Trường Sa là
nhắc đến bàng vuông. Tôi chẳng nhìn thấy quả bàng nào để mà biết nó
vuông tới đâu, đơn giản vì chưa đến mùa. Nhưng tôi thấy biết ơn cây bàng
giữa biển khơi, như biết ơn mẹ thiên nhiên đã cho chúng ta một trái đất
có màu diệp lục. Những cây bàng, cùng với phong ba, và những cây tra có
những chùm quả tựa như những chùm nho xanh biếc nữa, đã bất chấp thiên
nhiên khắc nghiệt, bất chấp sự khô khát của mặt đất, cứ lừng lững đứng
giữa muôn vàn gió táp, vâm váp, mạnh mẽ, kiên cường, rồi đột ngột một
ngày xuân nào đó, dịu dàng bung nở những cánh hoa sáng lấp lánh trong
nách lá.
Đoàn từ đất liền ra mang theo rất nhiều cây giống. Đi tới đảo nào cũng
trồng xuống vài cây mới. Trên đảo, có rất nhiều cây của những đoàn trước
trồng, đã bén rễ, thích nghi với đảo. Chưa khi nào, chưa ở nơi đâu, tôi
thấy việc trồng cây lưu niệm có ý nghĩa thực sự, gây xúc động thực sự
như việc được trồng xuống mỗi hòn đảo ở Trường Sa. Rồi đây, mỗi cái cây
nhỏ gầy guộc ấy, sẽ góp phần làm đầy thêm những khoảng trống trên cát,
thêm bóng mát cho đảo. Không chỉ là cây mà còn là tình cảm, là yêu
thương, là ước muốn được chia sẻ bớt những gian khổ mà cán bộ, chiến sĩ,
nhân dân Trường Sa đang ngày ngày phải đối diện để gìn giữ một phần máu
thịt Tổ quốc. Tất nhiên, chẳng phải chỉ cần trồng xuống mà thành cây
cao bóng cả. Đoàn rời đi rồi, thêm một cái cây là thêm một phần việc
dành cho lính đảo.
Tôi đi cùng một người lính già trên con đường nhỏ mà hai bên là những
cây phi lao được xén tỉa đẹp như trong công viên, ông nói: Mình ở thành
phố, ở đất liền, mà mình còn chẳng có nhiều cây như thế này. Có tí sân
thượng có khi còn phải tính toán chán xem nên trồng cây gì, vừa ăn được,
vừa ngắm được. Còn ở đây, chỉ cần duy nhất một yếu tố: Cây sống được.
Tôi chợt nhớ những chậu cây nhỏ li ti mình trồng ngoài ban công. Mỗi năm
đều phải chừa ra mấy tháng hè không trồng được gì vì vướng mấy cục nóng
điều hoà. Nó phả ra chỉ một đêm thì cây hoá... củi bằng sạch. Những cây
ở Trường Sa, hơn đâu hết, tôi tin là chúng có linh hồn. Tháng tháng năm
năm nghe tiếng sóng biển rì rào, hứng những cơn gió mặn mòi từ đại
dương, đón vài cánh chim lạc bầy, vươn những mầm xanh chờ đợi nước ngọt
rơi xuống từ trời... và lặng yên sống ở bên người, nhuộm cho đảo một màu
xanh dịu dàng hiếm hoi. Chúng là loài yêu thương và chung thuỷ bậc nhất
với con người. Và ở Trường Sa, có lẽ chúng cũng được yêu thương nhiều
nhất địa cầu.
Tàu chúng tôi đi trong những ngày nắng đầu hè không khoan nhượng. Không ở
đâu ánh nắng mặt trời được bộc lộ toàn bộ sự rực rỡ mà dữ dội của nó
như trên mặt biển. Không phải vượt qua bất kì một tán cây nào, một mái
nhà nào, cứ thế mà thẳng tắp lao xuống từ quả cầu chói loá trên vòm trời
biếc xanh thảng hoặc gợn vài tảng mây nhẹ bỗng. Một giờ ba mươi chiều,
lễ tưởng niệm sáu mươi tư chiến sĩ đã hi sinh trên đảo Gạc Ma tròn ba
mươi năm trước bắt đầu. Trái tim tôi thắt lại. Từ nơi chúng tôi buông
neo tới nơi sáu mươi tư người con của đất mẹ Việt Nam ngã xuống gần lắm.
Nhìn bằng mắt thường cũng thấy được nó đang hiện diện một cách ngạo mạn
ở đó, trắng lốp. Một nỗi đau nhức buốt bỗng chốc ngập tràn. Xót xa, uất
nghẹn khiến tôi bật khóc. Hàng trăm con hạc giấy, hàng trăm đoá cúc
vàng được từng người, từng người một cúi gập trên boong thả xuống mặt
nước. Loài người trên trái đất này, chẳng phải nghìn năm qua tất thảy
chỉ mong cầu một điều lớn nhất là BÌNH YÊN đó sao? Vậy mà những nỗi đau
từ sâu thẳm vẫn luôn phải cất tiếng đòi công lí. Là bởi vì công lí vẫn
còn ở nơi nào đó xa vời. Mà công lí chưa được thực thi thì hỏi khi nào
bình yên mới đến?
Trên cao, trên cái nền trời biếc xanh chói chang ánh dương kia, cờ Tổ
quốc và cờ của Hải quân Việt Nam đang cùng lặng lẽ tung bay. Tổ quốc
đang ở đây. Hơn chín mươi triệu trái tim chưa một ngày thôi hướng về
đây, nơi mà chúng tôi đang dừng lại, buông neo, và cất lên những yêu
thương tha thiết nhất.
Sau buổi chiều nhìn thấy những chú cá heo tuyệt đẹp uốn cong mình trên
mặt đại dương lăn tăn ấy, tàu chúng tôi đón một cơn gió mùa đến từ phía
đất liền. Tàu đi trước, gió mùa đuổi theo sau. Tốc độ trôi trên mặt biển
của gió nhanh hơn, nên chẳng mấy chốc nó đã trùm phủ lên toàn bộ hải
trình những cơn sóng lớn bạc đầu. Hoá ra, chính sự xuất hiện vô cùng
lãng mạn của cá heo lại là dấu hiệu báo trước cho một sự thay đổi theo
chiều hướng xấu của thời tiết. Những chiếc xuồng dùng để chở người từ
tàu vào đảo được hạ xuống rồi lại phải kéo lên. Sóng dữ dội đánh thẳng
vào mạn tàu, leo cả lên boong, xối trên mặt boong như có ai cầm một xô
nước khổng lồ để dội cho sạch. Trong khoang tàu, đồ đạc đổ liểng xiểng,
trôi tuồn tuột từ trái qua phải lại từ phải qua trái, cửa phòng bằng sắt
tự đóng sầm sập rồi lại tự mở toang hoang. Hình dung cả con tàu như một
cái chảo, và một người khổng lồ nào đó đang liên tiếp đập những quả
trứng rồi láng một cái cho trứng tràn trong lòng chảo. Có người đùa, bảo
anh nuôi giờ này rang lạc khỏi phải đảo, cứ cho vào, sóng nó tự đảo cho
chín đều tăm tắp.
Đá Tây A ở ngay trước mắt kia thôi, lúc ẩn lúc hiện sau những con sóng
lớn cao ngất ngưởng, nhưng ngoài vài chuyến nỗ lực chở quà, chở lãnh đạo
đoàn ghé được vào đảo, tất cả những chuyến sau đều phải huỷ hết. Mạn
xuồng đập uỳnh uỳnh vào mạn tàu. Những chiếc dây thừng lớn được anh em
chiến sĩ trên tàu dùng để níu xuồng lại sát tàu hết chùng vào lại căng
đét ra như muốn lôi cả người xuống biển. Đúng cái kiểu, giời không chịu
đất thì đất đành phải chịu giời. Cãi lại ông giời, chống lại ông ấy, thì
cái sức người thực chả ăn thua gì. Đến cái móng tay cũng chả bằng. Vậy
là chúng tôi đứng ở ngoài khơi, nhìn vào đảo, nghĩ đến những đôi mắt
mong ngóng, đợi chờ mà lòng dạ bồn chồn. Chỉ một quãng thôi, gần thật
gần mà xa xôi cách trở biết bao nhiêu.
Ngậm ngùi rời Đá Tây, chúng tôi tiến sang Trường Sa với hi vọng mong
manh con tàu với tay lái tài ba của đoàn thuỷ thủ giàu kinh nghiệm sẽ
vượt qua được sóng dữ để cập bờ. Nhưng không, thứ thời tiết trái mùa oái
oăm đã khiến tàu phải dừng lại, khi Trường Sa với dải bờ thân yêu ở
ngay trong tầm mắt. Tàu quay về Đá Tây, nghỉ qua đêm. Hôm sau, vẫn không
vào được Trường Sa, chỉ huy đoàn quyết định thêm một lần nữa lại cho
tàu quay về Đá Tây. Một quyết định khiến cả mấy trăm con người cảm thấy
xúc động, và chuyến đi thêm nhiều phần ý nghĩa.
Đêm xuống, chúng tôi sẽ được ngủ trong một cái vịnh yên tĩnh. Chúng tôi
sẽ cất lên những câu thơ tha thiết và nghẹn ngào, đầy hi vọng vào một
sáng mai sóng yên biển lặng, đủ để tàu cập bờ.
Nếu có ai đó nói rằng tôi đang viết những lời sáo rỗng, tôi tin rằng
người đó chưa một lần đến Trường Sa. Khi chúng ta đã đang “ngủ trong
giường chiếu hẹp”, thì thử hỏi biên độ tâm hồn chúng ta có thể mở ra đến
đâu? Khi nào bạn có thể bật khóc khi nghĩ đến hai chữ Tổ quốc? Đấy là
khi bạn cảm thấy hai chữ ấy đủ thiêng liêng khiến trái tim bạn ngân lên.
Đấy là khi bạn nhận ra rằng, để có Tổ quốc hôm nay, bao nhiêu người đã
ngã xuống. Bao nhiêu người mẹ đã khóc cạn nước mắt vì mất con. Đấy là
khi bạn cảm thấy, trong sâu thẳm, bạn thực sự là một công dân của Tổ
quốc này...
Nắng đã trải đầy trên đường băng, thị trấn Trường Sa ngập trong ánh vàng
óng của buổi sớm mai ấy. Tiếng chuông chùa binh boong lên thinh không
xanh nhức mắt. Tôi xin sư thầy một chữ An, viết theo lối thư pháp, lên
một viên đá nhỏ. Bình an, một lần nữa trong tâm khảm tôi chỉ mong mỏi
điều ấy, không phải chỉ cho bản thân mình, gia đình mình.
Khuya rồi. Rồi tôi sẽ rất nhớ tiếng sợi xích xiết vào thành tàu mỗi khi
tàu buông neo, nhổ neo giữa biển khơi. Mười ngày lênh đênh trên biển,
với những cảm xúc luôn dâng ngập đến ngộp thở, chúng tôi mang về đất
liền một niềm yêu thương biển cả, yêu thương những người giữ biển đến
quặn thắt.
Tôi chợt nhớ đến đôi mắt tròn xoe trong vắt của Ngọc Hân trên đảo Sinh
Tồn. Cô bé này được sinh ra trên đảo năm 2014. Rồi chúng ta sẽ có một
lớp công dân lớn lên ở đảo, trưởng thành, có thể đi khắp nơi, có thể
thành công ở những lĩnh vực cao siêu nào đó, mà trong trái tim, tâm hồn,
luôn ăm ắp đến thiết tha một nỗi nhớ đảo. Hẳn rồi. Chúng tôi chỉ đến
rồi đi trong chốc lát mà chưa đặt chân lên đất liền đã thấy nhớ, huống
hồ những em bé được sinh ra ở đấy - hòn đảo bé nhỏ giữa muôn trùng sóng
vỗ. Đấy là quê hương của chúng. Rồi khi có ai hỏi, quê bạn ở đâu? Chúng
sẽ nở một nụ cười mang âm hưởng của đại dương, và nói: Quê tôi ở Trường
Sa...
Đ.B.T
Nguồn: vannghequandoi.com.vn