Phải
chăng vì thế mà nước và các “khuôn mặt” khác nhau của nó trở thành
những hình ảnh, biểu tượng quen thuộc trong thi ca của mọi thời và mọi
đời. Nước có thể gắn với những thực thể, những không gian từ bé nhỏ đến
rộng lớn, từ giọt sương, hạt mưa đến mặt hồ, dòng sông hay cả đại
dương. Nhìn lại lịch sử thi ca của người Việt, những hạt mưa đã đi vào
bao tác phẩm nổi tiếng của những tác giả tên tuổi, và càng thú vị hơn
nữa khi cùng một tác giả viết về mưa nhưng trong những thời kì sáng tác
khác nhau lại có sự thể hiện hoàn toàn riêng biệt.
Có lẽ ta nên bắt đầu từ hạt mưa trong ca dao của những tác giả vô danh.
Mưa trong con mắt của người lao động bình dân trước hết được tri nhận
như một hiện tượng thiên nhiên, một biểu hiện của thời tiết. Nếu mưa ít
quá hoặc không mưa, chắc chắn cây cối sẽ hạn hán, mùa màng sẽ thất thu.
Nhưng nếu mưa nhiều quá thì sinh ra ngập úng hay lũ lụt, cũng vạn phần
nguy hiểm, không chỉ đe dọa mùa màng mà còn đe dọa chính mạng sống của
con người. Thế nên mới có những câu ca:
Trông trời trông đất trông
mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá
mềm/ Trời yên biển lặng mới yên tấm lòng. Diễn tả sự vất vả của người nông dân trong lao động, hạt mưa cũng được đem ra làm hình ảnh so sánh:
Cày đồng đang buổi ban trưa/ Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Nhưng những hạt mưa trong ca dao đâu chỉ hiện lên với nghĩa đen đơn
thuần, tư duy hình tượng đã khiến hạt mưa có thể đại diện cho thân phận,
mà thường gặp nhất là để chỉ những người phụ nữ trong xã hội xưa, vốn
khó có thể tự quyết định được số phận của mình:
Thân em như hạt mưa rào/ Hạt rơi xuống giếng hạt vào vườn hoa/ Thân em như hạt mưa sa/ Hạt vào đài các hạt ra ruộng cày. Cũng vẫn là thân phận người phụ nữ gắn với hạt mưa ấy, sau này được tái hiện trong Truyện Kiều của thi hào Nguyễn Du:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn/ Liều đem tấc cỏ đáp đền ba xuân; Cũng liều một hạt mưa rào/ Mà cho thiên hạ trông vào cũng hay.
Trong thời kì trung đại, chúng ta bắt gặp rất nhiều mưa xuất hiện trong
thơ Nguyễn Trãi với những cách biểu hiện khác nhau qua từng giai đoạn
của cuộc đời. Khi Nguyễn Trãi còn chưa ra giúp Lê Lợi, chưa gặp được bậc
minh quân, kẻ chí sĩ ôm mộng lớn nằm trong phòng nghe tiếng mưa triền
miên, buồn bã quạnh hiu. Con người dường muốn gửi cả vào cơn mưa những
nỗi niềm tâm sự của mình. Giấc ngủ suốt đêm chẳng đến, phải chăng muôn
hạt mưa đã trở thành người bạn để thi nhân kí thác nỗi lòng:
Tịch
mịch u trai lí/ Chung tiêu thính vũ thanh/ Tiêu tao kinh khách chẩm/
Điểm trích sổ tàn canh/ Cách trúc xao song mật/ Hòa chung nhập mộng
thanh/ Ngâm dư hồn bất mị/ Đoạn tục đáo thiên minh (
Vắng vẻ
phòng trai tối/ Suốt đêm nghe tiếng mưa/ Não nùng lay gối khách/ Giọt
giọt điểm canh mờ/ Luồn trúc gõ song cửa/ Theo chuông vào giấc mơ/ Ngâm
xong nằm chẳng ngủ/ Đến sáng nhặt rồi thưa - Thính vũ). Nhưng khi
đã gặp được minh chúa, lập thành đại sự, sau đó về ở ẩn tại Côn Sơn, thì
những hạt mưa không còn buồn bã như thuở trước nữa mà trở nên tươi tắn
ấm áp lạ thường, lòng người dường như cũng phơi phới theo muôn hạt mưa
bay. Những hạt mưa của mùa xuân như chính cảm xúc trong lòng tác giả. Đó
là các bài “Cuối xuân tức sự”:
Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão/ Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai (
Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn/ Đầy sân mưa bụi nở hoa xoan) và “Bến đò xuân đầu trại”:
Độ đầu xuân thảo lục như yên/ Xuân vũ thiêm lai thủy phách thiên (Cỏ xanh như khói bến xuân tươi/ Lại có mưa xuân nước vỗ trời).
Câu thứ nhất tả mưa vào cuối xuân, con người sắp chia tay mùa đẹp nhất
của năm mà lòng vẫn an nhiên tự tại, không hề có cảm giác “tiếc xuân”
thường gặp trong thơ của nhiều danh gia. Những hạt mưa cuối xuân nhẹ bay
hòa vào trong những cánh hoa xoan ngoài sân, ta có cảm giác như chính
những hạt mưa ấy cũng là những bông hoa vậy. Câu thơ giản dị mà lãng
mạn, đẹp một cách không ngờ. Câu thứ hai tả mưa lại cho ta thấy một sức
sống và nội lực dạt dào, ý thơ mạnh mẽ qua động từ phách (vỗ). Điểm nhìn
của chủ thể trữ tình và không gian được gợi mở, hướng lên cao và trải
rộng về bát ngát bầu trời. Câu thơ vì thế mang một vẻ đẹp hào sảng và
phóng khoáng.
Sang
đến đầu thế kỉ XX, Thơ mới 1932 - 1945 có vô vàn những hạt mưa. Nằm
chung trong một khối sầu tiên thiên bàng bạc trải khắp các thế giới thơ,
không gian thơ của những thi sĩ lãng mạn, những hạt mưa cũng không khỏi
nhuốm màu u buồn man mác. Hai người nhắc đến mưa nhiều nhất là Huy Cận
và Nguyễn Bính. Bài thơ đầu tiên của thi sĩ Lửa thiêng được Hoài Thanh
chọn đưa vào tuyển tập Thi nhân Việt Nam chính là một thi phẩm về mưa:
Đêm
mưa làm nhớ không gian/ Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la/ Tai nương
nước giọt mái nhà/ Nghe trời nặng nặng nghe ta buồn buồn/ Nghe đi rời
rạc trong hồn/ Những chân xa vắng dặm mòn lẻ loi…/ Rơi rơi…dìu dịu rơi
rơi…/ Trăm muôn giọt nhẹ nối lời vu vơ… (Buồn đêm mưa). Cơn mưa buổi chiều trong thơ Huy Cận còn xuất hiện trong hơn một bài thơ khác, gợi niềm mênh mang vô định:
Ngập
ngừng mép núi quanh co/ Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang (Đẹp xưa),
Nắng đã xế về bên xứ bạn/ Chiều mưa trên bãi, nước sông đầy/ Trông về
bốn phía không nguôi nhớ/ Dơi động hoàng hôn thấp thoáng bay (Vạn
lí tình). Thế nhưng sau 1945, mưa trở lại trong thơ Huy Cận với nhiều sự
khác biệt, những hạt mưa không u sầu cô đơn lẻ loi nữa mà đầy sức sống,
thậm chí gắn với cả hình ảnh trẻ thơ như một biểu tượng của niềm tin và
lạc quan về một ngày mai tươi đẹp, sáng trong:
Thuyền đậu thuyền đi hạ kín mui/ Lưa thưa mưa biển ấm chân trời (…) Em bé thuyền ai ra giỡn nước/ Mưa xuân tươi tốt cả cây buồm (Mưa xuân trên biển, 1959).
Còn với Nguyễn Bính, mưa cũng xuất hiện nhiều trong thơ của ông với
những biểu hiện đa dạng. Chúng ta hẳn không thể quên những hạt mưa xuân
đầy tâm trạng trong nỗi lòng của một cô gái quê, chờ mong được gặp chàng
trai của lòng mình trong hội chèo làng Đặng. Ban đầu, mưa xuân hiện ra
thật đẹp, thật lãng mạn như thể ước mơ của cô gái vừa được nhóm lên, vẫn
còn bao nhiêu chứa chan:
Bữa ấy mưa xuân phơi phới bay/ Hoa xoan
lớp lớp rụng vơi đầy. Nhưng rồi tới hội chèo và không gặp được người
mình yêu, vẫn là những hạt mưa xuân ấy hiện lên đầy buồn tủi và ai oán:
Mình em lầm lụi trên đường về/ Có ngắn gì đâu một dải đê!/ Áo mỏng che
đầu mưa nặng hạt/ Lạnh lùng thêm tủi với canh khuya. Khép lại bài
thơ, cơn mưa xuân cũng đã hết, mùa xuân cũng cạn ngày, ước mơ hò hẹn
tình yêu vẫn mãi còn dở dang, không trọn vẹn:
Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay/ Hoa xoan đã nát dưới chân giày.
Mưa trong thơ Nguyễn Bính còn gắn với những thân phận buồn thương khác
của người phụ nữ, mà điển hình nhất là người chị trong bài “Lỡ bước sang
ngang”:
Trời mưa ướt áo làm gì/ Năm mười bảy tuổi chị đi lấy chồng/ Người ta pháo đỏ rượu hồng/ Mà trên hồn chị một vòng hoa tang.
Mưa cũng gắn với những tháng ngày giang hồ gió bụi của thi sĩ, mưa giữ
chân con người trên một miền đất tha hương, để rồi những hạt mưa dường
như hòa cả vào trong li rượu bơ vơ lạnh lùng trên đất khách:
Sầu nghiêng mái quán mưa tong tả/ Chén ứa men lành lạnh ngón tay (Giời
mưa ở Huế). Thế nhưng cũng vẫn là Nguyễn Bính, cũng là viết về mưa
xuân, sau 1945 lại vô cùng tươi sáng. Cảm xúc của con người và vạn vật
xung quanh hòa quyện vào nhau, phơi phới lạc quan:
Nào ai nhìn thấy rõ mưa xuân/ Tơ nhện vừa giăng sợi trắng ngần/ Bươm bướm cứ bay không ướt cánh/ Người đi trảy hội tóc phơi trần
(Mưa xuân, 1958). Rõ ràng, niềm tin và tinh thần của người sáng tạo là
nhân tố vô cùng quan trọng dẫn tới việc chiêm ngưỡng và thổi hồn cho vạn
vật. Nếu như bi kịch lớn nhất của Thơ mới lãng mạn như Hoài Thanh đã
chỉ ra trong tiểu luận Một thời đại trong thi ca là bi kịch mất niềm
tin, thì cái thành công lớn nhất của cả một đội ngũ sáng tác sau 1945
chính là việc lấy lại được niềm tin, tìm ra được con đường sáng, tìm
được lí tưởng cho chính mình.
Những cơn mưa nối vào lịch sử như kể trên không chỉ xuất hiện trong thơ
của các thi sĩ lãng mạn mà còn xuất hiện với những đổi thay đáng kể
trong cả ca từ của những nhạc sĩ lừng danh. Trịnh Công Sơn chính là một
gương mặt điển hình. Ca từ của Trịnh Công Sơn trước 1975 đầy ắp những
cơn mưa, có người còn cho rằng Trịnh Công Sơn đã dựng lên cả một tô-tem
mưa. Đại đa số những cơn mưa ấy đều thao thiết, nhức nhối nỗi niềm thân
phận, những cuộc tình dở dang, những hoài niệm về tuổi trẻ một đi không
trở lại và dĩ nhiên cả những mịt mù về tương lai:
Ngoài hiên mưa rơi rơi. Lòng ai như chơi vơi. Người ơi, nước mắt hoen mi rồi. Đừng khóc trong câu ca, đừng than trong đêm mưa (Ướt mi),
Chiều nay còn mưa sao em không lại. Nhớ mãi trong cơn đau vùi làm sao có nhau hằn lên nỗi đau (Diễm xưa),
Ôi tiếng hát xanh xao của một buổi chiều. Trời mưa trời mưa không dứt. Ô hay mình vẫn cô liêu (Lời buồn thánh),
Trời còn làm mưa mưa rơi mênh mang. Từng ngón tay buồn em mang em mang đi về giáo đường ngày chủ nhật buồn
(Tuổi đá buồn). Thế nhưng sau 1975, mưa hiện về trong ca từ Trịnh Công
Sơn với những gương mặt khác. Vẫn có thao thức nhớ mong, song dường như
mưa đã bình yên hơn, bao dung và tình tự hơn cùng con người:
Có hai mùa vẫn đi về. Có con đường nằm nghe nắng mưa (…) Em còn nhớ hay em đã quên. Trong lòng phố mưa đêm trói chân (Em còn nhớ hay em đã quên, 1980);
Chiều trên quê hương tôi. Có khi đây một trời mưa bay. Có nơi kia đồi thông nắng đầy. Có trên sông bờ xa sương khói (Chiều trên quê hương tôi, 1980).
Những hạt mưa mãi mãi còn làm bạn với con người, với những trái tim nhạy
cảm của bao nghệ sĩ. Mưa trong veo như nước mắt, như gương soi. Nhìn
vào mưa, tả về mưa mà cũng là giãi bày về số phận mỗi con người và những
câu chuyện của cả thời đại. Những hạt mưa rơi xuống, nhất đán, cũng có
thể gột rửa đi bao mối u hoài, đau đớn của một thời đã qua, gọi lên
những mầm sống mới cho một ngày mai xanh biếc, như những câu hát về mùa
xuân mà nhạc sĩ Huy Du từng nói hộ chúng ta:
Khi hạt mưa, khi hạt
mưa của mùa xuân rơi xuống. Em biết rằng, em biết rằng giông tố đã bình
yên. Gió heo may phiến đá vàng lại sống. Lạnh lẽo qua rồi, mưa như lửa
bùng lên… (Khát vọng mùa xuân).
Nguồn: vannghequandoi.com.vn